Lynx là loài linh miêu mang vẻ ngoài cực kỳ ấn tượng. Chúng có kích thước nhỏ hơn sư tử hay hổ và vẫn mang vẻ đẹp riêng của loài mèo. Hãy cùng RussiCat tìm hiểu thêm về giống “mèo” linh miêu lynx này nhé.
1. Lynx và phân loại
Linh miêu là giống mèo hoang có thể tìm thấy ở quanh các khu rừng Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á. Chúng là loài sống đơn độc. Có bốn loài linh miêu là linh miêu canada, linh miêu Á – Âu, linh miêu Iberia và bobcat.
Lynx Á-Âu
Lynx Á – Âu là loài lớn nhất, chúng xuất hiện phổ biến hơn những giống khác. Các bé có thể được tìm thấy ở 46 quốc gia khác nhau trên khắp châu Âu, Trung Á và trong khu rừng ở siberia. Chúng là động vật ăn thịt lớn thứ ba ở châu Âu. Chúng có thể nặng đến 38kg
Lynx Canada
Lynx Canada được tìm thấy ở các khu vực rừng của Canada và Alaska, các bang phía bắc của Mỹ như Washington, Montana, New Hampshire và Maine. Linh miêu này thích nghi với khí hậu lạnh giá khi có bàn chân to và bộ lông dày.
Lynx Iberia
Lynx Iberia hay còn được gọi là linh miêu Tây Ban Nha. Chúng có những tiến hóa khác biệt với linh miêu Á – Âu. Lynx Iberia được tìm thấy ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Chúng là loài hiếm nhất trong số các loài linh miêu.
Bobcat
Bobcat được tìm thấy trên khắp miền nam Canada, Mỹ và miền bắc Mexico. Không giống như các loài linh miêu khác, thích sống trong rừng hoặc vùng cao nguyên, Bobcat được tìm thấy trong nhiều môi trường sống khác nhau. Ngoài việc được tìm thấy trong rừng, chúng cũng có thể được tìm thấy trong đầm lầy, sa mạc hay khu đất trồng nông nghiệp.
2. Đặc điểm ngoại hình của lynx
Cả bốn loài linh miêu lynx đều có những điểm tương đồng chung về ngoại hình. Tất cả chúng đều có đuôi ngắn, bàn chân lớn, lông trắng ở ngực và bụng. Đặc điểm nổi bật của lynx là có chùm lông đen trên chóp tai.
Cụ thể hơn về ngoại hình của các loại linh miêu được mô tả trong bảng dưới đây:
Tiêu chí | Lynx Á – Âu | Lyx Canada | Lynx Iberia | Bobcat |
Ngoại hình | Linh miêu Á-Âu có bộ lông mượt màu nâu đỏ vào mùa hè, và màu lông xám vào mùa đông. Chúng có đôi chân dài để giúp chúng bơi lội. | Bộ lông của linh miêu Canada màu nâu nhạt hoặc xám, có những đốm đen. Chúng có một đầu đen ở đuôi và những bàn chân rất lớn để giúp chúng đi xuyên qua tuyết. | Linh miêu Iberia có nhiều đốm nhất trên bộ lông của nó. Nó cũng có bộ lông ngắn và thô để giúp nó tồn tại trong khí hậu Địa Trung Hải. | Màu lông của Bobcat phụ thuộc vào môi trường sống của nó. Những con ở vùng sa mạc có màu lông nhạt hơn những con ở vùng rừng. Chúng cũng có bàn chân nhỏ nhất. |
Kích thước | Linh miêu Á – Âu là loài lớn nhất trong bốn loài linh miêu. Con đực có thể đạt trọng lượng 18-30 kg và chiều cao 70 cm. | Linh miêu Canada nhỏ hơn so với lynx Á – Âu, với cả con đực và con cái đều đạt trọng lượng 8 -14 kg và chiều cao 48 – 56 cm. | Linh miêu Iberia nặng hơn linh miêu Canada, với trọng lượng của con đực là 13 kg, chiều cao 60-70 cm. | Trung bình, Bobcat là loài nhỏ nhất trong bốn loài. Trọng lượng của con đực có thể thay đổi từ 7 – 14 kg. Chiều cao của nó là 51- 61 cm. |
3. Chế độ ăn
Lynx là loài ăn thịt. Kích thước của Lynx đôi khi phụ thuộc vào môi trường sống của chúng.
Linh miêu Á – Âu thích ăn thịt hươu. Nó có thể ăn những con mồi lớn như vậy vì nó là loài lớn nhất trong số các loài mèo linh miêu. Giống như tất cả các loài mèo linh miêu, chúng là những kẻ săn mồi cơ hội, có nghĩa là chúng sẽ săn mồi bất cứ con vật nào mà chúng nghĩ là dễ kiếm nhất.
Linh miêu Canada hầu như chỉ ăn thỏ rừng đi tất trắng. Trên thực tế, số lượng lynx Canada sẽ tăng và giảm phụ thuộc vào số lượng của thỏ rừng đi tất trắng. Vì thỏ rừng là loài động vật sống về đêm nên linh miêu Canada cũng là loài sống về đêm.
Linh miêu Iberia cũng chủ yếu ăn thỏ. Các khu vực mà linh miêu Iberia sinh sống cũng là nơi có rất nhiều loài chim sẽ di cư đến trong những tháng mùa xuân và mùa thu. Do đó, linh miêu Iberia đôi khi sẽ ăn thịt chim và gia cầm gần chúng.
Bobcat có chế độ ăn uống đa dạng nhất trong số các loài mèo linh miêu, vì chúng bao gồm phạm vi môi trường sống rộng nhất. Chúng ăn thịt thỏ và thỏ rừng, hươu nhỏ, và các động vật hoang dã nhỏ khác. Chúng cũng ăn các động vật đã được thuần hóa như chó và mèo, hoặc động vật trang trại như gia cầm và cừu.
4. Các mối đe dọa đến linh miêu lynx
Linh miêu phải đối mặt với nhiều mối đe dọa khác nhau đối với sự sống còn của chúng. Các mối đe dọa mà chúng phải đối mặt phụ thuộc vào chế độ ăn uống và môi trường sống của chúng.
Lynx Á – Âu
Linh miêu Á-Âu phải đối mặt với các mối đe dọa chính từ việc săn bắn. Vì linh miêu Á – Âu là loài lớn nhất trong số các loài mèo linh miêu, do đó chúng săn hươu làm nguồn thức ăn chính. Điều này đã khiến chúng không được những người nông dân và chủ trang trại không ưa chúng. Trong khi một số nông dân tin rằng chúng hữu ích trong việc ngăn chặn quần thể của các loài săn mồi khác, như cáo, thì rất nhiều mèo linh miêu Á – Âu vẫn bị giết khi nông dân muốn bảo vệ đàn gia súc của họ.
Linh miêu Canada
Linh miêu Canada phải đối mặt với hàng loạt mối đe dọa. Phá rừng và đô thị hóa đều phá hủy môi trường sống mà loài linh miêu có thể sinh sống. Chúng cũng phải đối mặt với nguy cơ trái đất nóng lên. Khi nhiệt độ tăng, dân số di chuyển xa hơn về phía bắc để ở giữa tuyết. Điều này có thể cô lập chúng và lần lượt thu nhỏ số lượng của quần thể.
Lynx Iberia
Linh miêu Iberia phải đối mặt với nhiều mối đe dọa nhất trong 4 loài linh miêu. Trên thực tế, có thời điểm, chỉ còn 25 con cái sinh sản trên thế giới. Các vấn đề chính của họ phát sinh từ chế độ ăn uống của họ. Chúng chủ yếu ăn thịt thỏ, trong vài thập kỷ qua đã có sự gia tăng của các loại dịch bệnh đã làm giảm hàng loạt quần thể thỏ trong môi trường sống của chúng. Quần thể linh miêu Iberia cũng bị ảnh hưởng bởi việc xây dựng đường cao tốc và giao thông qua môi trường sống của chúng. Không chỉ xây dựng đường xá gây mất môi trường sống, loài linh miêu Iberia giờ đây còn phải đối mặt với nguy cơ băng qua những con đường này và bị các phương tiện qua lại tới đâm phải.
Bobcat
Bobcat cần một lượng lớn không gian để sinh sản tự nhiên. Chúng phải đối mặt với các mối đe dọa từ sự phát triển đất cắt giảm không gian đất đó. Là những kẻ săn mồi tương đối nhỏ, chúng cũng phải đối mặt với các mối đe dọa từ các động vật khác như sói đồng cỏ. Những chú sói hoang này có một chế độ ăn uống tương tự và tìm kiếm nơi trú ẩn ở những nơi giống như Bobcat. Chó sói đồng cỏ lớn hơn mèo Bobcat, vì vậy sẽ chiến thắng hầu hết các cuộc tranh giành lãnh thổ và thức ăn.
5. Lynx sinh sản như thế nào?
Mùa giao phối của linh miêu bắt đầu từ cuối tháng 2 và kéo dài cả tháng. Những con đực sẽ chiến đấu với nhau giành con cái. Hang chung của chúng là “hang nguyên thủy” được làm dưới rễ cây hoặc trong khe đá hoặc trong cây dupoe. Thời gian mang thai của lynx kéo dài 63 – 70 ngày.
Vào tháng 5 là Lynx sinh sản từ 2 – 3 con con. Chúng khi sinh ra sẽ nặng từ 250 – 350 gram. Mắt mở sau 16 – 17 ngày. Khi chúng được một tháng tuổi, chúng bắt đầu ăn thịt, tuy nhiên việc bú sữa mẹ sẽ kéo dài thêm bốn tháng nữa.
Bản năng săn mồi trỗi dậy ngay từ khi còn nhỏ. Lynx con bốn mươi ngày tuổi, đã cố gắng rình “con mồi” và tấn công. Lyn nhỏ bắt đầu ra khỏi hang cùng mẹ, đàn con làm quen với cuộc sống phức tạp của khu rừng.
Con đực giúp mẹ kiếm ăn và nuôi dưỡng con cái con. Các con phát triển nhanh chóng. Khi lynx được 10 tháng, bạn sẽ rất khó để phân biệt chúng với bố mẹ của chúng và cả gia đình lynx bắt đầu đi săn cùng nhau. Trong suốt mùa đông, đàn con ở bên nhau và chúng sẽ tách ra khi đến mùa giao phối mới. Khi được một tuổi, lynx sẽ bắt đầu sống độc lập.
Con cái đạt đến độ tuổi sinh sản phù hợp nhất khi được 21 tháng tuổi, còn con đực là 33 tháng.